Tóm tắt. Kim loại nặng trong trầm tích tác động bất lợi cho sinh vật đáy. Những tác động đó hiếm khi có thể được dự đoán từ tổng nồng độ kim loại do ảnh hưởng của các dạng tồn tại trong trầm tích là khác nhau. Để đánh giá bất lợi tiềm ẩn do chất ô nhiễm Cu, Pb trong trầm tích, mô hình thử nghiêm độc tính dung dịch lắng trầm tích bổ sung (Cu 2+ , Pb 2+) lên phôi, ấu trùng hàu Crassostrea gigas đã được thực hiện. Mô hình được thực hiện theo 3 giai đoạn: (i) Điều chế mẫu trầm tích được thêm chuấn (Cu 2+ , Pb 2+); (ii) Điều chế các dung dịch lắng từ các mẫu trầm tích đã thêm chuẩn (Cu 2+ , Pb 2+) và (iii) Thử nghiệm độc tính phôi, ấu trùng Crassostrea gigas bằng dung dịch lắng. Các thông số như tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ bất thường của phôi, ấu trùng và EC50 được xác định. Kết quả cho thấy độc chất khi tiếp xúc với tinh trùng, trứng, cả tinh trùng và trứng cho EC50 là 0,024; 0,063; 0,034mg/L đối với Cu và 4,7; 14,0, 5,5 mg/L đối với Pb; Tỉ lệ ấu trùng không phát triển sau 24 giờ cho EC50 là 0,015 mg/L cho Cu và 2,88 mg/L cho Pb. Kết quả cho thấy độc tính Cu cao hơn Pb và trứng ít nhạy cảm hơn so với tinh trùng. Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng để dự báo mức độ nhạy cảm của Cu, Pb trong trầm tích vùng cửa sông Soài Rạp lên phôi, ấu trùng hàu Crassostrea gigas. Từ khóa: Crassostrea gigas, Cu và Pb, độc tính, Sài Gòn-Đồng Nai, trầm tích. 1. GIỚI THIỆU Cửa sông Soài Rạp thuộc hệ thống sông Sài gòn-Đồng Nai đang chịu nhiều tác động của các hoạt động công nghiệp, đô thị hóa dẫn đến khả năng ô nhiễm cao, trong đó Cu, Pb là đáng quan ngại [1]. Đồng là một nguyên tố vi lượng cần thiết ở mức độ rất nhỏ cho các chức năng sinh học của các sinh vật [2]. Tuy nhiên, dư thừa đồng gây trở ngại với các chức năng sinh học quan trọng và tác động lên sự phát triển của phôi, khả năng thụ tinh của trứng và tinh trùng [3]. Chì là một kim loại nặng cực kỳ độc hại làm xáo trộn các quá trình sinh lý khác nhau và không giống như các kim loại khác, chẳng hạn như kẽm, đồng và mangan, vì nó có thể gây độc hại ở nồng độ rất thấp [4]. Tuy nhiên, sẽ rất khó khăn để có thể được dự đoán tác động tiềm ẩn từ tổng nồng độ kim loại vì nó bị ảnh hưởng bởi các dạng tồn tại của kim loại trong trầm tích cũng như hóa sinh, sinh lý và hành vi của sinh vật đáy [5]. Các thử nghiệm về độc tính các chất gây ô nhiễm kim loại trong trầm tích đã được sử dụng để đánh giá các rủi ro về môi trường. Thử nghiệm độc chất sử dụng dung dịch lắng trầm tích kết hợp kim loại nặng đã được thực hiện để minh chứng các tác động của chúng lên sinh vật đáy [6, 7]. Giai đoạn đầu đời (sự thụ tinh của trứng, tinh trùng và sự phát triển của ấu trùng) của động vật không xương nhạy cảm cao với các tác nhân ô nhiễm so với giai đoạn trưởng thành và do đó giai đoạn này thường được dùng để thử nghiệm đánh giá độc tính sinh học, trong đó, hàu Crassostrea gigas được công nhận là nhạy cảm [8, 9]. Nhiều thử nghiệm độc tính đã được thực hiện khi dung dịch lắng của trầm tích tiếp xúc phôi, ấu trùng hàu [6]. Dung dịch lắng được thu từ mẫu trầm tích bổ sung chuẩn được ngâm chiết với dung dịch lỏng theo một tỉ lệ, được làm đồng nhất, để lắng, dung dịch nằm trên được sử dụng trong thí nghiệm độc tính [10]. Một loạt mẫu dung dịch lắng với khoảng nồng độ chất ô nhiễm bổ sung với trầm tích sẽ được thử nghiệm, kết quả thử nghiệm là các thông số LC50; EC50 của hóa chất chuẩn bổ sung vào trầm tích được xác định. Đối với các thí nghiệm độc tính cho sinh vật 2 mảnh vỏ vùng cửa sông, dung dịch lỏng được thay bằng nước muối biển/trầm tích tỉ lệ là 4:1, thời gian cân bằng 12 giờ [11]. Mẫu trầm tích bổ sung chuẩn có thể được bổ sung một hoặc nhiều chất gây ô nhiễm cần quan tâm để tạo ra các kịch bản liên quan. Các đặc tính hấp phụ của trầm tích phải được khảo sát trước khi thực hiện điều chế trầm tích bổ sung chuẩn sao cho mẫu trầm tích